Tục Ngữ - Ca Dao - Mối liên hệ giữa Ca Dao và Dân Ca
Ðịnh Nghĩa Tục Ngữ - Ca Dao
(bài do Julia Nguyễn cung cấp)
… Chọn một số sách biên khảo về văn chương bình dân hay nói rõ hơn, về thi ca truyền miệng, xuất bản tại Việt Nam trong vòng 50 năm, từ công trình của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (1928) cho tới khảo luận của Vũ Ngọc Phan (1978) để rút ra một kết luận riêng cho việc dẫn dắt tuổi trẻ Việt Nam trở về con đường dân ca như chúng tôi mong muốn.
Tục ngữ là gì?
Trước hết, các vị tiền bối đã cho ta thấy trong phạm vi tục ngữ mà các cụ định nghĩa là "câu nói có ý nghĩa, dễ nhớ vì có vần có điệu, lưu hành bằng cách truyền khẩu từ đi này qua đi khác", có nhiều danh từ cũng có chung một định nghĩa như tục ngữ. Chẳng hạn :
ngạn ngữ = lời xưa truyền lại.
thành ngữ = câu nói có sẵn, không thi vị người ta quen dùng.
Trong tục ngữ lại còn có cả :
sấm ngữ = lời tiên tri.
mê ngữ = câu đố.
lí ngữ = lời phải trái.
Và cũng trong gia đình tục ngữ, người xưa còn có thêm :
phương ngôn = tục ngữ của một địa phương.
châm ngôn = câu nói khuyên răn đi.
Ca dao là gì ?
Còn chữ "ca dao" mà các cụ định nghĩa là : "bài hát ngắn lưu hành trong dân gian" (tức là dân ca theo quan niệm thời nay) thì ngoài danh từ đó ra còn có :
phong dao = câu hát dân gian, tả phong tục tập quán.
đồng dao = bài hát của trẻ em (nhi đồng ca).
dân dao = ca dao do dân chúng làm ra.
Cuối cùng, lại có cả một danh từ, có vẻ như là câu nói tắt của hai chữ "tục ngữ -- ca dao":
tục diêu (dao) = tục ngữ bằng thơ lục bát.
Ai sáng tác ca dao ?
Một giả thuyết rất hấp dẫn được đưa ra, mà Phạm Văn Diêu là người cả quyết nhất, chủ trương : Ca dao là thi ca truyền miệng có tác giả chứ không hẳn chỉ là của quần chúng vô danh.
Hơn nữa, dù là của quần chúng vô danh hay của tác giả, ta vẫn thấy công dụng của ca dao là : Ca dao làm ra để hát, ngoài những câu hay những bài có tính chất mô tả tình phong tục tập quán còn là những câu hát về thời tiết, về thời sự, tóm tắt lại là những câu hát, những bài hát có dính dấp đến chính trị, có tính chất tuyên truyền nữa.
Dân ca cổ = Ca dao
Mối liên hệ giữa dân ca cổ và ca dao là : Toàn thể hình thức thơ truyền miệng hoặc một bộ phận trong đó là ca dao, không hoàn toàn trở thành những bài hát dân gian, tức dân ca, nhưng ta có thể nói rằng một phần lớn dân ca cổ đều xuất xứ từ ca dao. Nếu các vị tiền bối của chúng ta chỉ mới khẳng định là có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa ca dao và dân ca qua những tác phẩm vừa được nêu ra thì qua phần tới của tiểu luận này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự liên hệ đó ra sao với phương pháp nhạc học thuần lý.
Ta có thể lập luận một cách rõ ràng hơn nữa về sự liên hệ giữa ca dao và dân ca :
Theo truyền thống văn học nghệ thuật bình dân Việt Nam, thơ không tách rời khỏi nhạc. Lời thơ đầu tiên có thể là câu hát đầu tiên. Như vậy, giữa dân ca và ca dao không có ranh giới. Có phân biệt thì chỉ là khi nói tới ca dao, ta nghĩ đó là thơ dân gian. Khi nói tới dân ca, ta nghĩ đó là một thể loại ca nhạc. Hiểu theo cách thông thường :
Phân Loại Dân Ca Cổ
Ngâm, Ru
Bởi vì dân ca gắn liền vào đời sống của người dân cho nên tôi phác họa ra những bước tiến của dân ca, khởi đầu bằng hai loại "ngâm" và "ru" là những loại ca dành cho từng cá nhân, hát một mình hay để ru cho con ngủ. Ðó là hình thức dân ca thô sơ nhất vì (như đã nói ở trên) chỉ dùng một giai điệu nào đó, chưa cần phải sáng tạo nhịp điệu cho câu "ngâm" hay câu "ru" ngoài việc hát theo vận tiết của thơ (phần nhiều là thơ lục bát).
Ngâm Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau...
vân vân...
Ru Con:
Cái ngủ mày ngủ y y y cho à lâu
Mẹ mày đi cấy ý y a ruộng sâu
Chưa à về ...
Hò Làm Việc
Bước tiến thứ hai là từ dân ca của lúc ngồi hay lúc nằm trong nhà tiến tới dân ca dùng trong công việc hàng ngày (tức là loại hò làm việc) như "hò dô ta", "hò đẩy xe", "hò chèo thuyền", "hò cấy lúa", "hò đạp nước", "hò giã gạo" , "hò nện" v.v... Ở đây, dân ca không còn là bài hát tâm tình mà trở thành bài hát trợ sức làm việc, người hò (hò = hô to lên) bắt buộc phải tạo ra nhịp điệu (tiết tấu) của công việc. Dân ca không còn tính chất cá nhân mà mang tính chất tập thể, có giọng chính, giọng phụ, có hò cái, hò con. Ví dụ :
Hò Dô Ta:
Giọng chính (Hò cái) : Ta dô ta
Giọng phụ (Hò con) : Dô
Giọng chính (Hò cái) : Ta kéo gỗ
Giọng phụ (Hò con) : Dô
Giọng chính (Hò cái) : Gỗ làm đình
Giọng phụ (Hò con) : Dô
v.v...
Hò Nện
(công việc nện đất làm nền xây nhà)
Hò cái : Mời bạn hò khoan này
Hò con : Hụ là khoan
Hò cái : A lá khoan hò khoan là
Hò con : Hụ là khoan
Hò cái : Biết răng chừ
Hò con : Hụ là khoan
Hò cái : Cho tới tháng hai
Hò con : Hụ là khoan
Hò cái : Con gái làm ruộng
Hò con : Hụ là khoan
Hò cái : Con trai be bờ
Hò con : Hụ là khoan
Hò cái : A lá khoan hò khoan là
Hò con : Hụ là khoan...
v.v...
Hò Nghỉ Ngơi
Hò của người Việt Nam khi xưa không hẳn chỉ là "hò làm việc" (work song) mà còn là "hò nghỉ ngơi" (rest song) nữa. Làm việc đầu tắt mặt tối đến mấy thì cũng có lúc phải ngưng tay chứ. Ðây là lúc trai gái trao tình với nhau, và khi trao đổi câu hát như thế thì họ cũng gọi luôn là hò. Và chúng ta có "hò giao duyên", "hát huê tình", "hò chơi", "hò đối đáp" v.v...
Hò Giao Duyên:
Gặp nhau đây mới đầu trăng gió
Hỏi một lời : đã có chồng chưa ?
Hò Chơi mang tính chất địa phương và huê tình thì có :
Ghe anh nhỏ mũi trảng lườn
Ở trên Gia Ðịnh xuống vườn thăm em...
(Xin chú ý: Hò Nghỉ Ngơi không giàu tiết tấu bằng Hò Làm Việc).
Hò Hội hay Hát Hội
Sau giai đoạn hát tâm tình, hát làm việc, hát nghỉ ngơi... dân ca Việt Nam bước tới giai đoạn hát đám, hát hội. Người dân đem nhau ra trước công chúng để thi hát với nhau trong những hội hè đình đám. Trước tiên là hình thức "hát soan" (túc là hát trong hội mùa xuân), "hát đúm" (túc là hát đám), "hát ví" v.v... Rồi có bàn tay nghệ sĩ (nghệ nhân) nhúng vào một loại hát cần phải phong phú hơn các loại chỉ có tính cách tự phát của người dân. Phải có tổ chức trong Hát Hội, ví dụ : "hát trống quân" cần cái trống đất để đệm cho người hát. Và tổ chức cao nhất của hát hội phải là "hát quan họ" vì người ta cần phải phát minh ra rất nhiều lối hát, điệu hát khác nhau.
Trong Dân Ca Cổ Việt Nam, tổ chức Hát Quan Họ được coi là hình thức nghệ thuật cao nhất của lớp nông dân, phát sinh từ vùng Bắc Ninh, Bắc Việt. Nó không còn là loại ca hát giản dị hằng ngày dành riêng cho từng người mà trở thành trò tiêu khiển của đám đông và luôn luôn cần có bàn tay nghệ thuật làm cho nó thêm phong phú.
Hát Ví
(trong Hát Quan Họ)
Cô cả cô hai đó ơi !
Ở nhà tôi mới tới đây
Lạ thung lạ thổ tôi nay lạ nhà
Ba cô tôi lạ cả ba
Bốn cô lạ bốn biết là quen ai?
Ðến đây lạ cả bạn trai
Lạ cả bạn gái biết ai mà chào
Bây giờ biết nói làm sao
Biết ai quen thuộc mà vào trình thưa
Cô cả cô hai đó ơi !
Hát Trống Quân :
Trên trời (mà) có đám mây xanh
Dưới đất (thì) mây trắng
Chung quanh mây vàng
Thình thùng thình...
Ước gì (mà) anh lấy được nàng
Thì anh mua gạch Bát Tràng đem về xây
Thình thùng thình..
.
Hát Quan Họ
Mở đầu cuộc hát thi là những câu hát giản dị như bài Hát Mời Trầu :
Mời cô sơi miếng trầu nầy
Dù mặn dù nhạt dù cay dù nồng
Dù chẳng nên đạo vợ chồng
Ăn dăm ba miếng cho lòng anh vui
Rồi cuộc thi hát trở nên phứt tạp hơn với những bài hát có rất nhiều tính chất nghệ thuật như Ngồi Tựa Mạn Thuyền hay là Se Chỉ Luồn Kim...
Hát Thờ
Dân ca có mặt trong đời sống tình cảm, đời sống xã hội và có mặt luôn trong đời sống tâm linh của người dân nữa. Do đó ta có "Hát Chầu Văn", "Hát Bóng"... là loại hát thờ. Không cần nói thì ta cũng thấy về phần nhạc thuật, người đàn, hát (cung văn), người đánh trống phải làm sao để người hầu bóng có thể bị thôi miên và lên đồng được.
Giọng Cờn
(Hát Bóng Cô) :
Ðằng vân giá võ về nơi Thủy Tề
Các quan vui trên ngàn dưới địa
Vui đền thờ qúy địa danh lam
Quần thần văn võ bá quan
Công đồng yến ẩm thạch bàn còn ghi...
Hát Rong
Dân Ca khi xưa còn là những tờ báo truyền miệng, đem chuyện vùng này tới vùng kia qua hình thức hát rong với lối "hát vè", "hát xẩm"...
Vè Kể Chuyện Con Gái Mê Hát Bội
Nghe giống trống kỳ
Rủ nhau ra đi
Ðến làm chật chỗ
Lúc này không ngộ (hay)
Mới đánh đầu tuồng
Chạy thẳng vô buồng
Thấy hai chú tướng
Tướng này không sướng
Không bằng tướng kia
Ai về thì về
Tôi coi tới sáng...
Hát Xẩm thời xưa ở Bắc Việt
Dân Ca Cổ
Dân Ca Cổ còn tồn tại, nghĩa là còn thấy có ít nhiều sinh hoạt trong đời sống Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ 20, gồm các loại hát như ru, lý, hò, ví, xẩm v.v... thường là những câu thơ truyền miệng (oral poetry) được hát lên với nhạc điệu và nhịp điệu khác nhau, tùy theo địa phương và công dụng của bài hát hoặc của loại hát. Dân ca cổ vẫn được coi là sáng tác tập thể của nhân dân, của vô danh, dù đã có thuyết cho rằng nó cũng phải bắt đầu từ một người nào đó, trong một thời đại nào đó, rồi vì có giá trị cho nên đã được lưu truyền bằng cửa miệng và trở thành gia tài của tập thể.
Dân Ca Mới
Dân Ca Mới phát sinh vào giữa thập niên 40 sau khi nền nhạc mới, được gọi là nhạc cải cách (về sau gọi là tân nhạc) vừa ra đời và chịu ảnh hưởng của nhạc Âu Tây, rồi vì muốn cho tân nhạc có dân tộc tính cho nên một số nhà cải cách thời đó đã quay về nghiên cứu dân ca cổ để khởi sự từ cái vốn cũ, sáng tác những bản nhạc mà họ gọi là dân ca cải biên, dân ca phát triển, dân ca phục hồi hay dân ca mới.
Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau đi vào kho tàng của dân ca cổ để tìm hiểu gia tài quý báu đó, trước khi đi tới dân ca mới.
Mối Liên Hệ Dân Ca Cổ và Ca Dao
Trong ngành nghệ thuật bình dân cổ truyền Việt Nam, đã có một sự liên hệ chặt chẽ giữa dân ca và ca dao. Dân ca cổ, như đã nói trên, thường là thơ truyền miệng được hát lên. Muốn hiểu kỹ dân ca cổ, phải nghiên cứu văn học dân gian trong đó có thi ca truyền miệng. Thơ truyền miệng Việt Nam trong dĩ vãng đã mang nhiều tên như ca dao, phong dao, đồng dao... và đã được nhiều học giả sưu tập, nghiên cứu và san định.
Tục ngữ là câu nói có ý nghĩa, dễ nhớ vì có vần có điệu, lưu hành bằng cách truyền khẩu
Ca dao là dân ca tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy.
Dân ca là ca dao đã trở thành câu hát, bài hát, điệu hát.
Trích “Khái Quát về Dân Nhạc Dân Ca Việt Nam” – tác giả Phạm Duy